-
-
-
Phí vận chuyển: Tính khi thanh toánTổng tiền thanh toán:
-
Đăng bởi : Admin 17/11/2025
Ý NGÔN VÀ CÂU CHUYỆN KHOA HỌC ÓC NÃO
(Tưởng niệm Ân sư Thích Tuệ Sỹ)
Tiết Nguyên tiêu 2013, chùa Linh Sơn, Vạn Giã (Nha Trang, Khánh Hòa) tổ chức lễ hội Dược sư, thầy trụ trì cung thỉnh thầy Tuệ Sỹ cùng các học trò: tôi, Nguyên An, Đạo Luận về tham dự. Tối rằm, trăng sáng vằng vặc, thầy trò bày trà nóng ra sau sân hậu tổ, đối ẩm luận đạo, câu chuyện đầu tiên bàn về phước nghiệp con người trên cõi nhân gian. Sau đó, Đạo Luận thắc mắc về ý thức và não bộ của Stephen William Hawking (nhà vật lý người Anh, 1942 – 2018), trường hợp của ông, tuy tay chân không hoạt động được nữa, nhưng ông vẫn thuyết giảng, viết sách.
Thầy nói rằng, óc não con người như một ổ điện máy tính. Lúc cử động tay, chân, não bộ tạo ra xung điện truyền xuống các đường dẫn thần kinh trong tủy sống, tình huống của Hawking như thành phố bị quân IS bao vây (các căn, tay, chân bị liệt), chỉ còn cái thủ đô, không có lính tráng chi cả, giống như núp trong hầm chống bom nguyên tử. Chỉ còn óc não, mà trong não toàn là xung điện, cho nên người ta đặt vấn đề ý thức có hay không. Về sau Benjamin Libet [1916-2007] đã thí nghiệm, đưa ra kết luận có ý thức.
Hawking mắc bệnh xơ cứng teo cơ một bên, mất khả năng cử động. Trợ lý của ông đã thiết kế một thiết bị gọi là ‘nút má’ gắn trên kính của Hawking. Thiết bị này sử dụng tia hồng ngoại để theo dõi và nhận biết cử động cơ má bên phải của Hawking. Mỗi khi viết, ông cử động má để chọn ký tự trên bàn phím ảo, con trỏ chuột sẽ tự động di chuyển quét qua các ký tự theo chu kỳ. Cơ má như nút bấm vật lý. Nhưng chúng ta phải hiểu rằng, thức hoạt động cần căn, trường hợp của Hawking ý thức nhờ tịnh sắc căn trong não và căn cơ má để tồn tại và hoạt động. Ý thức biến lệnh của cơ má thành chữ viết, lời nói.
Lúc ấy, Nguyên An đặt thêm câu hỏi: “Ví dụ thầy phỏng vấn con, thầy nói chuyện bằng tiếng Anh, con không biết tiếng Anh, nhưng qua tư tưởng con hiểu, con nói lại cho người khác, họ thông dịch lại cho thầy. Chuyện đó có không?”
“Không có chuyện đó xảy ra”, thầy giảng: Trong não chúng ta như một cái máy tính, người ta lập trình tiếng Anh, mình viết sai tiếng Anh, nó biết nó sẽ sửa cho mình. Tiếng Việt cũng vậy. Khi tôi hỏi ông bằng tiếng Anh, câu hỏi đưa vô trong não, kích thích dòng điện truyền vô trong. Mình suy nghĩ chỉ toàn là điện, trong A-tỳ-đàm gọi là “ý ngôn” (manojalpa, hội thoại của ý). Đầu tiên ý thức cấu trúc một khái niệm hay một ấn tượng gì, có tưởng, có ấn tượng đẹp, xấu v.v., ta gọi đó là tầm (vitarka) và tiếp theo đó với tính toán chi tiết hơn gọi là tứ (vicāra). Y theo nguyên tắc như vậy gọi là ý ngôn. Người Việt nói bằng tiếng Việt, người Anh nói bằng tiếng Anh, trong não ý thức nó được lập trình sẵn gọi là ý ngôn. Trong suy nghĩ không có ý ngôn không thể suy nghĩ được. Tức là, nếu ông không học tiếng Anh, hay không biết nói tiếng Anh, xem như não chưa được lập trình, thì ông không thể suy nghĩ được. Không có ngôn ngữ đó ông không thể hiểu. Ví dụ ông sống trên rừng, ông về lại thành phố, ông thông minh tập tiếng Anh, nghe và suy nghĩ thì não mới có thể hoạt động được. Não không có ngôn ngữ đó thì nó không thể làm được. Đó gọi là ý ngôn.
Lý giải thêm, tôi hỏi ông bằng tiếng Anh, câu hỏi được truyền vào não của ông, ví dụ câu ‘tôi đi, I’m going’. Ý nghĩ của ông khởi lên mà trong óc não không có tiếng Anh nó không nhận được. Còn như tôi nói tiếng Việt: ‘Tôi đi’. Ông là người Việt, suy nghĩ ‘tôi đi’ đàng hoàng. Nếu nói cho người Anh nghe, ‘I’m going’, nó đưa vô trong não họ là khác, họ suy nghĩ, bắt được trả lời liền. Ngoài ra, giả như có trường hợp thần bí, truyền vô óc não thế nào thì mình chưa biết được. Như con khỉ, hay con chó, nếu người Việt huấn luyện nó, mà người Anh ra lệnh thì nó sẽ không làm theo. Hoặc con chó, nó ở bên Anh, người Anh huấn luyện nó, họ nói: Come here, con chó chạy lại liền. Còn ông, ông gọi: Lại đây! Nó tỉnh bơ. Chắc chắn con chó không tới.
“Mình đưa tay vẫy nó, nó hiểu nó tới chứ!” - Nguyên An nói.
“Không, nó không hiểu”. Thầy bảo: Cũng có trường hợp dùng ngôn ngữ ra hiệu, như ra trận chiến, có mật mã với nhau. Ví dụ, tướng soái ngồi trong doanh trại, dặn quân lính trước, nếu ta thả cái chén rượu xuống thì bọn bay tuốt gươm nhảy vô ám sát. Quân lính họ cầm gươm đứng sẵn, nhưng nếu ông tướng chưa thả chén thì bọn lính đứng đó tỉnh bơ.
Và có những cái chung. Vấn đề này liên hệ đến Paul Ekman (nhà khoa học nổi tiếng nghiên cứu về biểu cảm khuôn mặt). Hồi nhỏ gia đình ông thế nào đó nên ông không có thiện cảm với tôn giáo, nhất là Phật giáo. Năm 2000, ông được mời tham gia một cuộc đối thoại riêng tư giữa đức Dalai Lama (Đạt-lai Lạt-ma) và các nhà khoa học phương Tây, do Viện tâm thức và Đời sống (Mind and Life Institute) bảo trợ. Từ đó, ông trở thành bạn thân với Dalai Lama. Ông thí nghiệm biểu cảm cảm xúc trên khuôn mặt con người. Con người khi buồn, vui, mừng, giận, biểu hiện có những cái chung, mang tính phổ quát giữa các nền văn hóa. Như người Phi châu, khi họ giận lên gương mặt, ánh mắt như thế nào đó. Người Mỹ cũng vậy, ngôn ngữ khuôn mặt gần giống nhau. Cũng như những người bạn thân, thân quá không cần nói chuyện mà hiểu nhau, ngó qua ngó lại là biết đôi bên cần cái gì.
Thầy cười và nói, biết đâu mình tu giỏi, nhìn biểu cảm trên khuôn mặt của chúng sinh có thể biết họ muốn cái gì. Trăng càng lên cao câu chuyện càng hấp dẫn lôi cuốn, bởi thảo luận đủ loại đề tài, từ ý thức đến não, đến các nhà khoa học, các cuộc thí nghiệm. Câu chuyện còn dài, tôi chỉ trích đoạn từ file ghi âm. Mỗi lần ngồi biên tập thành bài, tôi càng ngạc nhiên thấy mình nhận được những thứ mà trước đây chưa bao giờ có trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong tư duy. Chắc chắn não của một con người bình thường không có nhiều nếp gấp bằng não của một thiên tài. Muốn bằng phải học nhiều, để não luôn được lập trình. Hầu chuyện với thầy, cho ta thấy đạo lộ đi vào Phật lý sâu thẳm và mênh mông.
Tâm Nhãn

Bình luận (0)
Viết bình luận :